KINH ĐỆ TỨ CỬU

Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc,

Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên,

Năm Rồng đỡ nổi đầu thuyền,

Vào cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.

Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,

Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

Cửa lầu Bát Quái chun ngang,

Hỏa Tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.

Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu Suất,

Vịn Kim Câu đến chực Thiên Môn.

Chơn thần đã nhập Càn khôn,

Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

TỨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

tucuu

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:

Bài Kinh Đệ Tứ Cửu do Tứ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Tứ nương Diêu Trì cung là vị Tiên Nương đứng hàng thứ tư trong Cửu Vị Tiên Nương. Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Tứ Nương mặc áo màu đỏ, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, tay cầm Kim Bảng.

Tứ Nương có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên tầng Trời Huỳnh Thiên, nhờ thuyền rồng ngũ sắc đưa vào Cung Tuyệt Khổ yết kiến Đức Huyền Thiên Quân, dìu Chơn hồn chun ngang Bát quái, thiêu hết oan gia nghiệt chướng, để được nhẹ nhàng lên núi Thái Sơn, qua cung Đâu Suất, cỡi Kim mao hẩu về cõi Xích thiên.

CHÚ GIẢI:

Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc,

Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên,

Sắc huỳnh: Hay Huỳnh sắc 黃 色 là màu vàng.

Chiếu 照: Soi, rọi.

Roi: Lưu dấu.

Đường hạc: Đường bay của chim hạc.

Huỳnh Thiên 黃 天: Một tầng trời có ánh sáng màu vàng.

Nhẹ thoát chơn Tiên: Bước chơn Tiên đi một cách nhẹ nhàng thanh thoát.

Câu 1: Sắc màu vàng chiếu sáng trên đường bay của chim hạc.

Câu 2: Trên cõi Huỳnh Thiên bước chân Tiên đi một cách nhẹ nhàng thanh thoát.

Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền,

Vào cung Tuyệt khổ kiến Huyền Thiên Quân.

Năm rồng: Năm con rồng.

Đỡ nổi: Chống đỡ cho nổi lên.

Cung Tuyệt khổ: Hay Tuyệt Khổ Cung 絕 苦 宮, một cung ở tầng Huỳnh Thiên.

Kiến 見: Tức là bái kiến.

Huyền Thiên Quân 玄 天 君: Là một Đấng Thiêng Liêng nơi Cung Tuyệt Khổ.

Câu 3: Thuyền có năm con rồng đỡ đầu chiếc thuyền nổi lên.

Câu 4: Đưa Chơn hồn vào cung Tuyệt Khổ để bái kiến Đức Huyền Thiên Quân.

Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,

Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

Quái khí 怪 氣: Một thứ khí có hại như tà khí.

Roi thần: Cây roi thần diệu.

Chớp nhoáng: Tia chớp lóe sáng.

Bộ Lôi công: Hay Lôi công bộ 雷 公 部: Bộ coi về sấm sét.

Giải tán 解 散: Làm cho tiêu tan hết.

Trược quang 濁 光: Ánh sáng uế trược, khí uế trược.

Câu 5: Ánh sáng chớp nhoáng của roi thần lóe lên để trừ tà khí của Chơn thần.

Câu 6: Thần sấm sét trong bộ Lôi công trừ tiêu tan hết những trược quang.

Con người chịu biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, nên trược khí ở cõi thế gian đã thâm nhiễm vào Chơn linh như Kinh Giải Oan đã viết:

Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,

Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.

Vì vậy, khi Chơn hồn về đến cõi Huỳnh Thiên thì được Lôi thần dùng roi Thiêng liêng để trừ tà khí và giải tán những uế trược đã ô nhiễm vào Chơn thần. Đó cũng là một bí pháp giúp cho Chơn hồn có tu được tiếp tục đi lên những cõi Thiêng Liêng khác.

Cửa lầu Bát Quái chun ngang,

Hỏa Tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.

Lầu Bát Quái: Hay Bát Quái Lâu 八 卦 樓: Một cái lầu hình Bát Quái nơi cõi Thiêng liêng.(Xem chú giải về Bát Quái Đài ở phần trên).

Chun ngang: Chui ngang qua.

Hỏa tinh 火 星: Sao Hỏa. Theo ý nghĩa câu kinh, đây chỉ về lửa.

Tam muội 三 昧: Lửa Tam Muội, một loại lửa được luyện bằng cách lấy chơn hỏa của ngũ hành trong cơ thể con người mà luyện thành.

Thiêu tàn 燒 殘: Đốt cháy sạch hết.

Câu 7: Đến tầng Trời này Chơn hồn phải đi ngang qua cửa lầu Bát Quái nơi cõi Thiêng Liêng.

Câu 8: Nhờ vậy các đấng Thiêng Liêng mới dùng lửa Tam muội để đốt tiêu hết các oan gia nghiệp chướng.

Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu Suất,

Vịn Kim Câu đến chực Thiên Môn.

Thái Sơn 太 山: Một ngọn núi ở cõi Huỳnh Thiên.

Đâu Suất 兜 率: Tức Đâu Suất Thiên Cung 兜率 天 宮, một cung của Đức Thái Thượng Lão Quân.

Kim câu 金 拘: Là một cái lịnh bài bằng vàng dùng để điều khiển chư Thiêng Liêng. Nếu một Chơn hồn được Kim câu bài thì có thể vào Thiên môn.

Thiên môn 天 門: Cửa Trời.

Câu 9: Đến được cõi giới này, Chơn hồn có thể từ núi Thái Sơn mà đi qua Đâu Suất Thiên Cung của Đức Thái Thượng.

Câu 10: Được thẻ lệnh gọi là Kim Câu Bài của Đức Thái Thượng Lão Quân cấp cho thì Chơn hồn mới đi đến cửa Trời một cách dễ dàng.

Chơn thần đã nhập Càn khôn,

Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

Nhập 入: Vô, vào.

Càn Khôn 乾 坤:Tức là Càn khôn Vũ trụ hay Trời đất.

Độ thế 度 世: Cứu giúp đời.

Bảo tồn 保 存: Giữ gìn cho còn mãi.

Câu 11: Đến cõi giới này, khi Chơn thần được đắc đạo thì có thể xuất nhập vào Càn khôn Vũ trụ.

Câu 12: Chơn thần được quyền nhập vào cõi thế để cứu giúp người đời hầu bảo tồn vạn linh, sanh chúng.