KINH ĐỆ NGŨ CỬU

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,

Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,

Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

Lần vào cung Ngọc Diệt Hình,

Khai kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.

Đắc văn sách thông Thiên định Địa,

Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.

Kỵ kim quang kiến Lão Quân,

Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng.

NGŨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

ngucuu
NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:

Bài Kinh Đệ Ngũ Cửu do Ngũ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngũ Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đứng hàng thứ năm trong Cửu Vị Tiên Nương. Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Ngũ Nương mặc áo màu đỏ, ngồi bên trái Đức Phật Mẫu, tay cầm cây Như Ý.

Ngũ Nương Diêu Trì Cung có nhiệm vụ tiếp dẫn Chơn hồn đến tầng Xích Thiên, đưa Chơn hồn đến đài Chiếu Giám để xem rõ những hành vi tội phước của mình nơi thế gian, rồi tiếp tục dẫn đến khai Kinh Vô Tự đặng thấy được quả duyên của mình. Sau đó, nhờ xe Như Ý đưa Chơn hồn tiếp lên tầng Trời trên.
CHÚ GIẢI:

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,

Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.

Ánh hồng chiếu: Ánh sáng màu hồng rọi chiếu.

Đường mây: Mây làm thành đường đi.

Rỡ rỡ: Rực rỡ, sáng chói.

Xích Thiên 赤 天: Từng Trời có màu hồng. Từng Trời này tất cả ánh sáng đều màu hồng.

Vội mở: Vội vàng mở ra.

Ải quan: Hay quan ải 關 隘: Chỗ đất hiểm trở ở nơi biên giới hai nước. Ở đây chỉ cái cổng vào nơi cõi Xích Thiên.

Câu 1: Chơn hồn đi trên mây có ánh sáng màu hồng chiếu rực rỡ.

Câu 2: Đến từng Xích Thiên thì cửa ải vội vàng mở ra để tiếp rước Chơn hồn.

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

Thiên quân 天 軍: Hay là Thiên binh, Thiên tướng, tức chỉ những binh tướng nơi cõi Thiêng Liêng.

Diêu động 搖 動: Hay dao động: Lung lay, đưa qua đưa lại.

Linh phan 靈 幡: Cây phướn linh.

Thánh vức: Hay Thánh vực 聖 域: Vùng đất Thánh, chỉ cả vùng nơi Xích Thiên.

Nhộn nhàng: Rộn rịp.

Tiếp nghinh 接 迎: Đón tiếp.

Câu 3: Vị Thiên quân lay động phất cây phướn linh để chào đón một Chơn hồn về cõi Xích Thiên.

Câu 4: Miền đất Thánh Thiêng Liêng đang nhộn nhịp tiếp đón một Chơn hồn về từ cõi địa hoàn.

Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,

Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

Đài chiếu giám: Hay Chiếu giám đài 照 鑑 臺: Cái đài có đặt một tấm gương để soi rọi tội phước. Tấm gương đó gọi là Minh cảnh 明 鏡 nghĩa là gương sáng, dùng để soi rọi các Chơn hồn khi thác xuống thấy đặng những hành vi thiện ác trong kiếp sống nơi cõi thế gian. Đài này còn gọi là Minh cảnh đài 明 鏡 臺.

Trong Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp nói về Minh Cảnh Đài như sau: “Trước mặt chúng ta, chúng ta thấy khi trước chúng ta làm những việc gì, nay nó sẽ chiếu lại cho xem chẳng khác gì mình xem tuồng hát bóng vậy. Mỗi khi mình hành động gì trong kiếp sanh khi xưa, hôm nay đều ngó thấy trước mặt, và cây cân công bình ấy tùy theo nên hư, tội phước mà hiện tượng ra hết thảy, quyết đoán một cách công bình, không sai chút nào hết. Phải chăng đó là huyền bí của Toà Thiêng Liêng ấy”.

Xem rõ ràng tội phước: Những phước đức và tội lỗi của một con người tạo ra ở nơi thế gian sẽ được lập lại khi Chơn hồn đứng soi trước Minh cảnh đài một cách rõ ràng, y hệt như cuốn phim quay lại các sự việc.

Căn sinh 根 生: Những lời nói hay hành vi thiện ác tạo thành cái gốc rễ trong kiếp sống nơi thế gian.

Câu 5: Về đến cõi này, Chơn hồn nhẹ nhàng bước đến đài Chiếu Giám (Minh cảnh đài).

Câu 6: Bao nhiêu tội phước mà Chơn hồn đã gây ra suốt kiếp sống nơi cõi trần đều được xem lại một cách rõ ràng trong gương Minh cảnh.

Lần vào cung Ngọc Diệt Hình,

Khai kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.

Lần vào: Lần lần đi vào trong.

Cung Ngọc Diệt Hình: Hay Ngọc Diệt Hình Cung 玉 滅 形 宮: Một Cung diệt bỏ hết hình tướng nơi từng Trời Xích Thiên. Trong đó có Kinh Vô Tự.

Kinh Vô Tự 無 字 經: Là một quyển Kinh, trong ấy không có chữ viết. Khi Chơn hồn đến cõi này, đi vào trong Cung Ngọc Diệt Hình để mở quyển Kinh Vô Tự ra xem thì chữ viết hiện ra ghi rõ lý lịch và những hành vi thiện ác của Chơn hồn trong kiếp đương sanh ở nơi cõi trần.

Trong Thiêng Liêng Hằng Sống, đêm 26-1-năm Kỷ Sửu (23/2/1949), Đức Hộ Pháp nói về quyển Kinh Vô Tự như sau: “…chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên Thơ để trước mặt ta, dở ra xem thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì thì trong quyển Thiên Thơ ấy nó hiện tượng ra hết; chúng ta tự xử chúng ta, mình làm tòa để xử mình, hoặc mình phải đầu kiếp hay là đoạt đến địa vị nào, mình đứng đến mức nào thì cũng do mình định đoạt lấy”.

Quả duyên 果 緣: Cái kết quả đạt được do những nhơn duyên mà ta đã tạo ra. Ví dụ được hạt lúa (Quả) là do cái nhơn duyên mà ta làm như cày bừa, gieo mạ, phân, nước…(duyên)

Câu 7: Chơn hồn đi lần lần vào trong Cung Ngọc Diệt Hình.

Câu 8: Mở quyển Kinh Vô Tự tức là quyển kinh không chữ viết để xem quả duyên của mình.

Đắc văn sách thông Thiên định Địa,

Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.

Đắc văn sách 得 文 冊: Được một quyển sách.

Thông Thiên định Địa 通 天 定 地: Thông hiểu và định đoạt được các việc trong Trời đất.

Phép huyền công: Phép tắc do công phu tu luyện được có thể biến hóa một cách thần diệu.

Trụ nghĩa 住 義: Đứng vào những điều nghĩa, tức là ở trong vòng những điều đúng theo đạo lý.

Hóa thân 化 身: Dùng phép thuật huyền diệu để biến hóa thân mình.

Câu 9: Đến đây, Chơn hồn sẽ được một quyển sách Thiêng Liêng, trong đó dạy thông suốt và định đoạt về các việc Trời đất.

Câu 10: Đạt được phép huyền công biến hóa thân mình để hành xử những điều nghĩa.

Kỵ kim quang kiến Lão Quân,

Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng.

Kỵ 騎: Cỡi.

Kim quang 金 光: Lằn ánh sáng màu vàng, hay hào quang màu vàng.

Kiến Lão Quân 見 老 君: Bái kiến Đức Thái Thượng Lão Quân.

Dựa: Nương vào, cậy vào.

Xe Như Ý: Hay Như Ý xa 如 意 車: Xe Như ý của Đức Thái Thượng Lão Quân. Xe này có thể đến bất kỳ nơi đâu theo ý muốn.

Oai thần: Hay thần uy 神 威: Cái oai linh thần diệu.

Tiễn thăng 餞 升: Đưa tiễn bay lên cao.

Câu 11: Chơn thần được cỡi lên hào quang màu vàng để đưa đi bái kiến Đức Thái Thượng Lão Quân.

Câu 12: Nương vào xe Như Ý, Chơn hồn được đưa tiễn lên đến cõi Kim Thiên, với oai nghi thần diệu.